
Đề bài: Soạn bài Tự tình 2
BÀI LÀM
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
* Cuộc đời:
– Nguồn gốc: Sống vào khoảng cuối thế kỉ XVIII dầu thế kỉ XIXBà sinh và mất năm nào đến nay cũng chưa có tài liệu nào xác định được. Quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ đồ Hồ Phi Diễn. Cụ Đồ ra Bắc dạy học rồi lấy một bà vợ lẽ sinh ra Hồ Xuân Hương. Có một thời làm ngôi nhà ở ven hồ Tây gọi là Cổ Nguyệt Đường.
– Thông minh, sắc sảo, tài năng thơ phú hơn người.
– Đường chồng con lận đận, nhiều éo le, trắc trở (Hai lần lấy chồng thì cả hai lần đều làm lẽ (lấy Tổng Cóc và tri phủ Vĩnh Tường, cả 2 lần chồng chết): “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm/ Cầm bằng làm mướn, mướn không công”.
– Cuối đời, bà đi giao du nhiều nơi nhất là thăm chùa chiền và danh lam thắng cảnh.
* Sự nghiệp thơ văn:
– Hồ Xuân Hương để lại tập “Lưu Hương kí” phát hiện năm 1964 tập thơ 26 bài thơ chữ Nôm và 24 bài thơ chữ Hán.
– Thơ của bà mang phong cách riêng rất độc đáo. Nhà thơ phụ nữ viết về giới mình vừa trào phúng, vừa trữ tình, vừa mang đậm phong cách dân gian. Tiếng nói chủ yếu trong thơ nữ sĩ là nỗi niềm cảm thông, là sự khẳng định vẻ đẹp nhiều mặt và khát khao đòi quyền sống tự do, bình đẳng, khát vọng hưởng tình yêu và hạnh phúc của người phụ nữ. Ngôn ngữ trong thơ bà nhiều khi táo bạo mà tinh tế.
– Được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm.
– Phong cách: Một cá tính độc đáo, một phong cách đặc biệt khác thường. Nó chứa đựng một mâu thuẫn phức tạp: tiếng cười ngang tàng, thoải mái kéo theo những giọt nước mắt cay đắng và những tiếng thở dài não nuột. Hồ Xuân Hương làm thơ để ném ra cá tính, phong cách của mình, để thách thức với trật tự đẳng cấp. Thơ bà là tiếng nói đanh thép, dõng dạc của quần chúng đồng thời là cái ấm ức, bực bội của số phận cá nhân. Đó là cái ấm ức của người đàn bà tài hoa, giàu sức sống và khát khao tự do, hạnh phúc nhưng lại bị đầy ải bởi cuộc đời đầy éo le, bất hạnh.
2. Văn bản:
* Thể thơ, thể tài:
– Thể thơ: Mô phỏng theo thể thơ Đường. Đây là thơ Nôm Đường luật. Bài thơ làm theo thể thất ngôn, bát cú.
– Thể tài tự tình: tự bày tỏ tâm trạng, cảm xúc, tình cảm của người viết trong một hoàn cảnh nào đó; gần gũi với các bài thuật hoài, Ngôn hoài đã học ở lớp 10 THPT.
* bố cục: có thể chia theo hai cách:
– Bốn cặp câu (đề, thực, luận, kết)
– 4 câu trên và 4 câu dưới
– Bốn câu trên thể hiện nỗi lòng trong cảnh cô đơn, lẽ mọn, bộc lộ khát vọng hạnh phúc tuổi xuân.
– Bốn câu còn lại: Thái độ bức phá vùng vẫy mà vẫn rơi vào tuyệt vọng của cảnh đời lẽ mọn.
Tự (tự sự): kể lể, tâm sự; Tình: tình cảm, tâm trạng à “Tự tình” là tâm sự, bộc bạch nỗi lòng, tâm trạng. Bài thơ là nỗi thương mình trong cô đơn, lẽ mọn, khao khát hạnh phúc tuổi xuân. Đồng thời thể hiện thái độ bức phá, vùng vẫy muốn thoát ra khỏi cảnh ngộ, muốn vươn lên giành hạnh phúc nhưng lại tuyệt vọng, buồn chán.
II. ĐỌC – HIỂU
1. Nỗi thương mình trong cảnh cô đơn lẽ mọn
* Hai câu đầu:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
– Câu thơ mở đầu xác định, thông báo hoàn cảnh tự tình: đêm khuya. Khuya rồi mà vẫn không sao ngủ được. “Đêm khuya” là thời điểm từ nửa đêm cho đến gần sáng. Người phụ nữ ấy vẫn thao thức chờ đợi.
=> Nhận biết thời gian qua âm thanh văng vẳng dồn dập của tiếng trống cầm canh. Bài thơ bắt đầu bằng một tiếng trống canh dồn (đó là tín hiệu xác định thời gian). Tiếng trống báo hiệu thời gian đang trôi qua một cách gấp gáp điều đó cho thấy tác giả rất có ý thức về sự chảy trôi của thời gian. Đêm khuya xác định cái khoảnh khắc nữ sĩ đang đắm mình, lắng mình vào dòng thời gian nhưng chính tiếng trống đã xua đi sự yên tĩnh ấy, để rồi cuối cùng tác giả lại buồn tủi với thực tế số phận mình.
– Văng vẳng: là từ xa vọng lại. “Trống canh dồn” diễn tả tiếng trống thôi thúc, gấp gáp. Đó còn là tiếng trống của tâm trạng. Nó dồn dập diễn tả sự chờ đợi khắc khoải, thảng thốt của người phụ nữ trong cảnh lẽ mọn, chờ người chồng đến với mình. Nhưng càng chờ, càng vô vọng. Thực ra đây là cảm nhận của nhà thơ về dòng thời gian xô đuổi.
– “Trơ” không phải trơ lì, chầy sạn mà là diễn tả sự: còn lại, không sắc, bẽ bàng, trơ trọi, cô đơn.
– Hồng nhan: nhan sắc người phụ nữ đẹp thường đi với đa truân hay bạc mệnh để thành thành ngữ: hồng nhan đa truân, hồng nhan bạc mệnh thường gặp trong chinh phụ ngâm, cung oán ngâm, Truyện Kiều. “Hồng nhan” được kết hợp với chỉ từ “cái” đã làm cho câu thơ cụ thể hoá khái niệm hồng nhan với ý tự mỉa mai.
Thật đáng buồn, tủi cho thân phận của nàng. Ta càng thấy thương cho những người phụ nữ trong cảnh đời lẽ mọn.
– Thật chua chát và đắng cay cho thân phận. Nó bộc lộ sự khao khát đến cháy bỏng về hạnh phúc và tuổi xuân. Câu thơ không chỉ là lời tự tình, kể nỗi lòng mình mà còn thương những người cùng cảnh ngộ, khiến nỗi sầu nhân thế đến rưng rưng. ý nghĩa nhân văn, tinh thần nhân đạo càng trở nên sâu sắc.
– Ca dao xưa đã từng nức nở.
“Tối tối chị giữ lấy chồng
Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài
Sáng sáng chị gọi bớ hai
Mau mau trở dạy băm bèo thái khoai”
Hồ Xuân Hương cũng từng văng vào cảnh đời ấy.
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười hoạ hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không”.
Trở lại bài thơ, ta thật thương nàng. Nàng chờ mong chồng nhưng người chồng không đến. Đây không chỉ một lần chờ mà nhiều lần như thế. Câu thơ thấm nỗi buồn tủi, phẫn uất.
* Hai câu 3 và 4
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
– Ngồi một mình cô đơn, uống rượu dưới trăng lạnh lùng, ngắm trăng, ngẫm duyên phận mình, càng thêm buồn chán. Nàng mượn rượu để tiêu sầu dìm hồn trong đáy cốc. Song càng uống càng tỉnh, càng tỉnh càng sầu hơn.
hình ảnh người phụ nữ uống rượu một mình giữa đêm trăng, đem chính cái hồng nhan của mình ra làm thức nhấm, để rồi sững sờ phát hiện ra rằng trong cuộc đời mình không có cái gì là viên mãn cả, đều dang dở, muộn màng.
– Hình ảnh “Vầng trăng bóng xế” diễn tả đêm sắp qua rồi mà niềm ân ái hạnh phúc vẫn không. Hình ảnh “Vầng trăng bóng xế” còn diễn tả tuổi xuân qua đi mà hạnh phúc chưa có. Vầng trăng đã “xế” lại “khuyết” tức là thiếu. Vầng trăng xế, khuyết hẳn là chưa tròn. Không gian nghệ thuật đã tăng thêm sức hút của bài thơ.
Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng quẩn quanh, tình duyên đã trở thành trò đùa của con tạo, càng say càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận, câu thơ vừa là ngoại cảnh vừa là tâm cảnh tạo nên sự đồng nhất giữa trăng và người. Vầng trăng khuyết lơ lửng cuối trời như một thực tại đau đớn, phũ phàng, như một lời giễu cợt đối với nhân vật trữ tình; mình sắp già rồi mà hạnh phúc vẫn xa vời, thiếu hụt tình duyên vẫn cọc cạch lẻ loi.
– Sử dụng từ ngữ rất tinh tế, giàu sắc thái biểu cảm.
+ Từ diễn tả không gian (đêm khuya)
+ Từ diễn tả âm thanh (văng vẳng trống canh dồn)
+ Từ diễn tả hình ảnh (vầng trăng bóng xế, khuyết, chưa tròn)
+ Sử dụng phép đối giữa câu 3 và 4 để làm rõ bi kịch giữa khát vọng hạnh phúc của tuổi xuân và sự thực phũ phàng.
2. Thái độ của nhà thơ và sự thật phũ phàng
* Câu thơ 5 và 6
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
– Xiên ngang, đâm toạc. Cách đảo ngữ Rêu từng đám xiên ngang mặt đất xiên ngang mặt đất rêu từng đám, tương tự: Đá mấy hòn đâm toạc chân mây => đâm toạc chân mây đá mấy hòn. Đảo ngữ đã tạo ra cách nói mạnh mẽ của thái độ không cam chịu. Phép đối của câu 5 và 6 giữa hai hình ảnh mặt đất /chân mây khẳng định thái độ xé trời, vạch đất cho thoả nỗi uất ức tủi hờn. Một tâm trạng bị dồn nén. Từ than thở đến tức tối, muốn đập phá, muốn giải thoát khỏi sự cô đơn, cảnh đời lẽ mọn. Đấy là nét độc đáo, táo bạo trong thơ nữ sĩ họ Hồ.
=> Đó là thái độ bức phá, vùng vẫy của Xuân Hương. Thái độ ấy được diễn tả bằng hình ảnh tạo ấn tượng mạnh mẽ.
=> Hai câu thơ với cách dùng từ, hình ảnh mạnh mẽ, táo bạo làm cho hình ảnh thiên nhiên trở nên sống động cựa quậy, căng tràn sức sống, tạo nên một trong những đặc điểm độc đáo của phong cách nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương ngay cả trong tình huống đau buồn, bi thảm nhất.
* Hai câu thơ cuối:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
– Tâm trạng phẫn uất mãnh liệt được thể hiện ở hai câu 5,6 bỗng thay đổi và chùng xuống ở hai câu 7,8 tạo thành tiếng thở dài thể hiện sự chán trường buồn tủi, chấp nhận một cách xót xa
– Muốn đập phá vẫy vùng nhưng kết quả là gì? Xã hội phong kiến độc ác nào có để tâm tới thân phận bèo bọt, con ong, cái kiến của người phụ nữ! rút cuộc Hồ Xuân Hương phải buông tiếng thở dài đến não ruột trong sự buồn chán, cam chịu theo ngày tháng trôi đi. Thời gian, quy luật của tự nhiên bốn mùa xuân hạ thu đông cứ theo vòng luân chuyển: “Xuân đi xuân lại lại”. Mùa xuân trở lại với đất trời. Nhưng quy luật của đời người thì thật nghiệt ngã. “Cái già xồng xộc theo sau”. Lại sống trong cảnh lẽ mọn, người phụ nữ bị chia sẻ hạnh phúc. Mảnh tình ít ỏi bị san sẻ. Thật tội nghiệp. Tác giả đã sử dụng những từ: Mảnh, tí, con con trong cùng một câu thơ. “Mảnh đã ít, lại nhỏ. “Tí” cũng là ít. “Con con” ít ỏi đến vô cùng không thể chia được nữa. Bản chất của tình yêu là không thể san sẻ ( ăng ghen).
– Hai câu thơ cuối như một lời than thân, trách phận của người phụ nữ phải làm lẽ trong xã hội phong kiến bạc ác. Tự nhiên nó là tiếng nói đồng cảm với tất cả những ai cùng cảnh ngộ, cũng là tiếng nói bóc trần, kết tội xã hội tàn ác đã đè nặng lên kiếp sống người ta. Trong đầm đìa nước mắt vẫn pha một nụ cười giễu cợt, càng chua chát hơn.
III. Tổng kết
1. Nội dung:
Bài thơ là nỗi thương mình trong cô đơn, lẽ mọn, khao khát hạnh phúc tuổi xuân. Đồng thời thể hiện thái độ bức phá, vùng vẫy muốn thoát ra khỏi cảnh ngộ, muốn vươn lên giành hạnh phúc nhưng lại tuyệt vọng, buồn chán.
2. Nghệ thuật:
– Sử dụng từ ngữ thuần Việt giàu hình ảnh về màu sắc, đường nét (dồn, trơ, sang, tỉnh, bóng xế, khuyết, xiên ngang, đâm toạc, mảnh, tí, con con). Tất cả nhằm diễn tả tâm trạng và thái độ, nỗi chán ngán về thân phận lẽ mọn. Giọng điệu bài thơ vừa ngậm ngùi vừa ai oán, bộc lộ thái độ vùng vẫy, bức phá, không cam chịu.
IV. LUYỆN TẬP
– Câu hỏi: So sánh sự giống nhau và khác nhau của ba bài thơ Tự tình?
– Đáp án:
+ Cả ba bài đều diễn tả bằng từ thuần Việt giàu hình ảnh về màu sắc âm thanh. Bài thơ: Tự tình I và tự tình ii với Tự tình III
Giống nhau:
+ Đều là tiếng nói than thở của nhân vật trữ tình về duyên phận.
+ Cả ba bài thơ đều rất giàu tâm trạng. Tả cảnh để ngụ tình.
Khác nhau:
+ Bài Chiếc bánh là Tự tình III làm sau khi đã hai lần làm lẽ mà không hạnh phúc. Nó có dư âm của sự buông xuôi, phó mặc (mặc ai, thây kệ).
+ Bài Tự tình I nỗi lòng Xuân Hương ở vào thời điểm đêm khuya thì Tự tình II vào lúc gần sáng. Một bên là tiếng trống cầm canh còn một bên là tiếng gà báo sáng.