Phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến- văn 11

7194 1494911290054 1015 - Phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến- văn 11

bài thơ “Tiến sĩ giấy” của .

Bài làm

Thi phẩm đặc sắc “Tiến sĩ giấy” được nằm trong phần thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến. Nhưng trào phúng thường phải ngụ trữ tình mới hay. Mọi người đều biết Tam Nguyên Yên Đổ cũng là một ông nghè nổi tiếng tài ba, thừa hiểu tiến sĩ giấy chỉ là thứ cho trẻ con, vậy mà sao nhà thơ Nguyễn Khuến còn làm thơ chế giễu?

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến viết:

Cũng cờ, cúng biển, cũng cân đai,

Cũng gọi ông nghè có kém ai!

Tác giả như đang tả thực ông tiến sĩ giấy với đủ các thứ sang trọng vua ban cho ngày vinh quy như cờ, biển, cân đai và cũng gọi là ông nghè. Và câu hỏi tại sao chỉ trong hai câu mà nhà thơ lại dùng một loạt bốn từ cũng? Đọc lên âm điệu giống như thể hiện thái độ ngạc nhiên trước một sự lạ. Người đọc ở đây có thể ngầm hiểu là trong đời có những ông tiến sĩ những ông nghè thật, xứng đáng với các thứ cờ, biển, cân đai đó, còn ông tiến sĩ này tuy cũng đầy đủ các thứ và cũng được người đời gọi bằng ông nghè nhưng chẳng có chút giá trị nào, vì đó chỉ là một ông nghè giả làm bằng giấy. Nghĩa đen là thế, còn nghĩa bóng là tuy cũng có đủ thứ quý giá thật đấy nhưng tài cán, đức hạnh chẳng ra gì. Có thể thấy rằng ngụ ý thâm thuý của Nguyễn Khuyến là vừa tả hình dáng ông tiến sĩ giấy, vừa gợi cho người đọc liên tưởng đến những kẻ tuy mang danh tiến sĩ, cũng có áo mũ xênh xang, sang trọng đẹp đó nhưng thật sự chẳng có một chút tài đức nào.

Xem thêm:  Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong bài “Hai đứa trẻ”.

Hai câu thực tiếp tục phát triển ý nghĩa ấy:

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Và với mooijt vài mảnh giấy xanh xanh, đỏ đỏ, người làm đồ chơi bồi bồi, dán dán thành hình một ông tiến sĩ giấy, mặt mày phết màu trắng rồi dùng màu son tô điểm cho đẹp. Phần ấy là giả. Còn thân giáp bảng (giáp bảng là bảng thứ nhất sơn vàng nên còn được gọi là bảng vàng), dùng để ghi danh những người đỗ đại khoa, từ tiến sĩ trở lên. Văn khôi ở đây có nghĩa là tài giỏi về văn chương. Mặt văn khôi là cách gọi những tiến sĩ có tài xứng với học vị cao quý đó. Làm nên thân giáp bảng và như điểm rõ mặt văn khôi đâu phải cần mấy mảnh giấy và vài nét son mà thành tiến sĩ thực có tài đức được. Phải trải qua biết bao năm , có khi suốt cả đời, lại phải là kẻ thông minh, tài cao, chí lớn, gặp thầy gặp bạn mới nên danh chứ đâu có dễ dàng gì. Tuy vậy, ở trên đời thực không ít những vị tiến sĩ bằng xương bằng thịt, học hàm học vị hẳn hoi nhưng cũng chẳng khác gì loại tiến sĩ giấy là bao. Dường như cái thân giáp bảng và mặt văn khôi chẳng qua cũng chỉ là kết quả của những mảnh giấy do chạy chọt bằng thế lực đồng tiền và những nét son vẽ vời bôi bác để che mắt thiên hạ.Và dù sao đi chăng nữa, cái thật và cái giả ở đây cũng vẫn còn lẫn lộn, chưa phân biệt rạch ròi! Cái giả chưa được tác giả đem ra phê phán.

Hai câu luận:

Tấm thân xiêm ảo sao mà nhẹ,

Cái giá khoa danh ấy mới hời.

Dường như không còn lấp lửng, bóng gió nữa, từ miêu tả bên ngoài, nhà thơ đã đi vào đánh giá bên trong, vẫn nói vể ông tiến sĩ giấy như: tấm thân nhẹ, cái giá hời bởi làm bằng giấy và bán giá rẻ mạt nhưng ý tứ đã vượt ra ngoài hình hài người giấy mà chĩa thẳng vào các vị khoác trên mình xiêm áo ông nghè nhưng tài năng, đạo đức nhẹ tênh, suốt đời không làm nổi việc gì xứng đáng với danh vị cao quý ấy. Vậy mà cũng vênh vang với Gái danh ông nghè, ông thám, thì quả là cái giá khoa danh ấy quá rẻ, quá hời, chĩ nhờ dịp may mà mua được. Ý nghĩa trào lộng, châm biếm sâu cay của đoạn thơ đến đây đã thể hiện rất rõ.

Và như thế có nghĩa là không phải chỉ đến mới xuất hiện hàng loạt những ông tiến sĩ giấy, mà tiến sĩ giấy hằng ngày có mặt khắp mọi nơi. Trong đám quan lại của triều đình nhà Nguyễn cuối thế kĩ XIX, thiếu chi thân giáp bảng, mặt văn khôi nhưng cũng chẳng hơn gì loại tiến sĩ giấy. Lớp trước sợ giặc, hèn nhát đầu hàng. Lớp sau dựa vào lí lẽ tùy thời, ra làm quan với triều đình bù nhìn, ngoan ngoãn chấp nhận kiếp làm tay sai cho thực dân Pháp. Đến đây thì xiêm áo không chỉ nhẹ, khoa danh không chỉ hời mà đã thành dơ bẩn. Cho nên mới kết thúc bài thơ bằng hai câu nhận xét thâm thuý:

Xem thêm:  Giáo án Đây thôn Vĩ Dạ soạn theo phương pháp mới

Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!

Ta quay trở lại với tựa đề bài thơ và hai đối tượng một hiện, một ẩn là ông tiến sĩ giấy và ông tiến sĩ bằng xương bằng thịt, chúng ta thấy giá trị chẳng khác gì nhau.

Có một điều rất lạ có thể nhận thấy ở đây là giọng thơ Nguyễn Khuyến rõ ràng có ý phê phán, cười cợt nhưng không phải phê phán, cười cợt một cách thoải mái, hả hê mà phảng phất trong lời chế giễu ấy có cả sự tự chế giễu . Bởi cụ cũng là một ông nghè đích thực, hơn nữa là Tam Nguyên Yên Đổ nổi danh, nhưng trước tình cảnh tang thương của đất nước lúc bấy giờ, cũng đành thở dài ngậm ngùi, buông xuôi, bất lực.

Hình ảnh đắt được sử dụng “ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ” là lời bình phẩm theo kiểu nâng nhân vật lên cao để rồi bật ra cái cười mỉa mai chua chát, và có thể nói quá đắng cay khi phải phơi bày sự thực là tiến sĩ thật hay tiến sĩ giấy giờ đây cũng đểu là thứ đồ chơi mà thôi! Nỗi đau tuy chưa chảy thành nước mắt nhưng cứ rưng rức ở trong lòng nhà thơ.

Thi phẩm đặc sắc “Tiến sĩ giấy” như mới đọc qua tưởng chỉ là một bài thơ vịnh vật đơn thuần, bình thường nhưng suy ngẫm kĩ, ta sẽ thấy nó hàm ẩn chất trào phúng trữ tình sâu thẳm, thật đáng trân trọng.

Check Also

7293 1494911290065 1020 310x165 - Soạn bài Một số thể loại văn học: kịch, nghị luận lớp 11

Soạn bài Một số thể loại văn học: kịch, nghị luận lớp 11

Văn học luôn có sự đa dạng nhất định của nó. Văn học là món …