Phân tích bài “Câu cá mùa thu” (Thu điếu) của Nguyễn Khuyến

7128 1494911290046 1013 - Phân tích bài “Câu cá mùa thu” (Thu điếu) của Nguyễn Khuyến

Phân tích bài “Câu cá ” () của .

Bài làm

Hẳn ai ai trong chúng ta đều biết rằng mùa thu vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam từ xưa cho đến nay. Thu đến thường mang đến cho tâm hồn người thi sĩ một nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nuối tiếc về một cái gì đó xa xôi, đầy bí ẩn. Dường như không ai có thể vô tình mà không nói đến cảnh thu, tình thu khi đã là thi sĩ! Và chỉ khi ta đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Cảnh cật mùa thu trong thơ ông không phải là mùa thu ở bất cứ miền nào cũng có, thời nào cả, mà là mùa thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ. Chỉ với hình ảnh chi tiết nhỏ bầu trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước “trong veo” của ao cá (Thu điếu), và cái “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” ( Thu ẩm). Nguyễn Khuyến đã làm say đắm lòng bao thế hệ! Và ta vẫn còn nhớ lời nhận xét về bải thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy thì chúng ta cùng nhau thử tìm hiểu xem thế nào mà “Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”?

Nếu như ở trong tác phẩm “Thu vịnh” thì mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ cái không gian thoáng đãng, mênh mông, bát ngát, với cặp mát hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của mùa thu để thấy được: “ Trời thu thật là xanh, xanh màu xanh ngắt mấy tầng cao”, thì ở tác phẩm “Thu điếu”, ông không ở một khung cảnh thiên nhiên rộng rãi, không phải là trời thu, rừng thu hay hồ thu, mà lại chỉ gói ghém thu thật gọn trong một ao thu: ao chuôm là đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của Nguyễn Khuyến:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Xem thêm:  Đề HSG văn 10 : Nguyễn Du- nghệ sĩ suốt đời băn khoăn, day dứt về số phận con người

Câu thơ đầu tiên xuất hiện vần “eo” tại hai vần “eo”, câu thơ như đã thể hiện sự co lại, đọng lại không nhúc nhích, cho ta một cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh đến lạ kì đến lạ thường. Không khí của mùa thu,bức tranh mùa thu vốn đã thật là tĩnh lặng và khi có từ “lẽo” và từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh, nhưng thêm hai từ này lại càng thấy cảnh tĩnh hơn nữa. Không gian nhỏ hẹo “ao” nhưng tác giả lại hề bị giới hạn mà mở rộng ra nhiều chiều, trong cái không khí se lạnh đó dường như làm cho làn nước ao ở độ giữa mùa thu của đất trời, cuối thu như trong trẻo hơn. Phải nói rằng bằng với sự tưởng trong “ao thu lạnh lẽo” ấy, mọi vật sẽ không xuất hiện, thế mà thật bất ngờ. Bức tranh “ao cá” không hề trống vắng mà có “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Có khung cảnh thiên nhiên cũng như có dấu vết của cuộc của con người, khiến cảnh thu thêm được phần nào ấm cúng. Chiếc thuyền lại bé “tẻo teo” trông thật xinh xắn. Câu thơ khi được đọc lên, làm cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi và thân mật biết bao!Với hai câu mở đầu, nhà thơ Nguyễn Khuyến thật khéo léo khi sử dụng những từ ngữ gợi hình ảnh, tạo độ gợi cao: “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” mang đến cho người đọc một nỗi buồn man mác, cảnh vắng vẻ, ít người qua lại. Và rồi hình ảnh:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Chính những hình ảnh và những tiếng động kia như đã càng làm cho không khí trở nên tĩnh lặng hơn, nhà thơ đã dùng cái động thật nhẹ của “lá vàng trước gió” để miêu tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê Việt Nam. Dường như ta đã thấy được những cơn gió mùa thu đã xuất hiện và mang theo cái lạnh trở về, khiến ao thu không còn “lạnh lẽo”, không còn tĩnh lặng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng khẽ đưa vèo”, cảnh vật dường như đã bắt đầu thay đổi hẳn đi! Hình ảnh giàu sức biểu đạt như cơn “sóng biếc” nhỏ “hơi gợn tí” và chiếc lá “trước gió khẽ đưa vèo” tưởng như mâu thuẫn với nhau, nhưng thật ra ở đây Nguyễn Khuyến đã quan sát kĩ theo chiếc lá bay trong gió, chiếc lá rất nhẹ và thon thon hình thuyền, chao đảo liệng đi trong không gian, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Chắc chăn là nhà thơ Nguyễn Khuyến phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống thật sâu sắc thì ông mới có thể được những âm thanh tinh tế, tưởng chừng như chẳng ai để ý đến như thế! Nếu như ở câu mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng vần “eo” nhưng tác giả không bị giới hạn mà đã mở rộng không gian theo chiều cao, tạo nên sự khoáng đạt, rộng rãi cho cảnh vật:

Xem thêm:  Soạn bài Kiểm tra tổng hợp cuối năm đầy đủ hay nhất lớp 11

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Có thể nói rằng bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu. Những áng mây không trôi nổi bay khắp bầu trời mà “lơ lửng”. Trước đây Nguyễn Du đã từng viết về mùa thu với những câu thơ thật hay:

Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng

Nay chúng ta lại biết đến một Nguyễn Khuyến cũng thế. Nhà thơ đã mở ra không gian rộng, cảm hứng Nguyễn Khuyến lại trở về với khung cảnh làng quê quen thuộc cũng vẫn hình ảnh của những , cây trúc, vẫn bầu trời thu ngày nào, vẫn ngõ xóm quanh co đầy tình quê…tất cả đều trở nên rất đỗi thân thương vè nhuốm màu sắc thôn quê Việt Nam. Chỉ khi mà đến với nhà tơ tài năng và tinh tế- Nguyễn Khuyến, chúng ta mới thực sự thấy được những nét quê tĩnh lặng, êm ả như vậy. Khi tiết trời chuyển sang thu, cái không khí giá lạnh đã xuất hiện manh nha, đường làng cũng vắng vẻ. “Ngõ trúc quanh co” cũng “vắng teo” không bóng người qua lại. Sau này khi trong bài “Đây mùa thu” tới cũng đã bắt đựơc những nét điển hình đó của sông nước ở vùng quê, khi trời đã bắt đầu bước vào những ngày giá lạnh:

Những luồng run rẩy rung rinh lá…

Hay:

“… Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò.

Cùng với: Cành biếc run run chân ý nhi (Thu)

Xem thêm:  Soạn bài Phong cách ngôn ngữ chính luận(tiếp theo) đầy đủ hay nhất lớp 11

Thế rồi trong cái không khí se se lạnh đặc trưng của mùa thu đó của thôn quê, những tưởng sẽ không có bóng dáng của con người, ấy vậy mà thật bất ngờ đối với người đọc:

Tựa gối buông cần, lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Hai câu thơ cuối kết thúc mang một điều gì khác hẳn những câu trước, câu thơ đã góp phần bộc lộ đôi nét về chân dung tác giả. Dường như đã có tài liệu cho rằng tác giả viết “tựa gối, ôm cần lâu chẳng được”, “ôm” chứ không phải là “buông”. Theo “Việt Nam tự điển” đã chỉ dẫn thì “buông” hay hơn, phù hợp với tính cách của nhà thơ hơn. Có thể nói trong những ngày từ quan lui về ở ẩn, mùa thu câu cá, đó là thú vui của nhà thơ nơi làng quê để tiêu khiển trong công việc, để hoà mình vào thiên nhiên, mà quên đi những bận lòng với nước non, cho tâm hồn thanh thản. “Buông” được hiểu là thả lỏng, đi câu không cốt để kiếm cái ăn (hiểu theo đúng của nó), mà để giải trí, cho nên “ôm” không phù hợp với hoàn cảnh cho lắm. Từ “buông” như đã mang đến cho câu thơ hiệu quả nghệ thuật cao hơn.

Dường như qua tác phẩm “Thu điếu”, đọc như đã phần nào thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với thiên nhiên, đối với cuộc sống và chỉ có những ao nhỏ, những “ngõ trúc quanh co” nơi thôn quê, màu xanh của bầu trời, cũng đã làm say đắm lòng người. Thì ra, ta cũng có thể khẳng định được mùa thu ở chốn thôn quê chẳng có gì là xa lạ, mùa thu ở thôn quê chính là cái hồn của cuộc sống, và còn là cái duyên của nông thôn. Câu cuối trong bài thơ thất hay, thật đặc sắc trong bài thơ này là thú vị nhất, vừa gợi được cảm giác, vừa biểu hiện đựơc cuộc sống ngây thơ nhất với sự việc sử dụng những âm thanh rất trong trẻo, nó dường như có tính chất vang ngân của những cặp vần, đã chiếm được thiện cảm của độc giả, đã đọc qua một lần thì khó mà quên đựơc.

Check Also

7175 1494911290053 1015 310x165 - Soạn bài Một số thể loại văn học: kịch, nghị luận lớp 11

Soạn bài Một số thể loại văn học: kịch, nghị luận lớp 11

Văn học luôn có sự đa dạng nhất định của nó. Văn học là món …